PHẦN HAI - PHẦN TÂN ƯỚC
1- YÊSU
NAZARETH
, NGÀI LÀ AI
?
Các bạn, các anh chị thân mến,
Thế là chúng ta đã cùng nhau trãi qua phần
Cựu Ước hay là Giao ước củ trong đó cho chúng ta biết Thiên Chúa , nh à
sư phạm tuyệt vời với tình mến thương bao la, đã tác thánh lên con người, đi
đến với con người trong tình trạng của nó, dù đó là tình trạng sa đọa tội lỗi
đi nữa. Tuy nhiên, với Giao ước củ, lịch sử Ơn Cứu Độ chưa lên tới đỉnh điểm. Các
ngôn sứ với mặc khải, đã nhận ra điều nầy khi loan báo một sự hoàn chỉnh hơn mà
Đấng
Ngự Đến nhân danh Chúa mang lại. Điều nầy thành tựu nơi Đức Yêsu Kitô,
với Giao ước mới mà đỉnh điểm là sự chết trên thập giá và sự phục sinh quang
vinh của Ngài.
Có thể các bạn và các anh chị chưa có đủ
thời gian làm quen với phần Cựu ước, chúng tôi mong các bạn bỏ chút thời gian
để đọc giáo trình chúng tôi đã gởi ngõ
hầu có một cái nhìn tương đối theo trình tự. Chúng tôi sẽ trở lại phần Cựu ước
nầy trong phần ôn tập cuối khóa cũng như khi hướng dẫn các bạn trong các phần
khác, chính Cựu ước sẽ làm rõ hơn phần Tân ước. Bây giờ, chúng ta cùng bắt đầu
đi tìm xem Yêsu Nazareth, người bị chết treo trên thập giá và đã sống lại. Tuy
nhiên, thiết nghĩ chúng ta nên tìm hiểu vài nét về Tân ước, chúng tôi lượt
thuật từ Tiểu dẫn vào Tân Ước của lm Nguyễn thế Thuấn và Lời Chúa cho mọi người
.
I . ĐÔI NÉT VỀ TÂN ƯỚC.
Hai mươi bảy văn thư dài vắn khác nhau,
nội dung và ngoại diện cũng lắm điều thù dị, được tập hợp lại làm thanh bộ sách
Tân Ước, hay nói khác đi, là Thánh Kinh của Giao Ước Mới, viết ra với mục đích dẫn dắt
các tín hữu. Trong hai mươi bảy cuốn đó, có 4 cuốn nói về cuộc đời và
các việc Chúa Yêsu làm, gọi là Tin Mừng, gồm Tin Mừng của Matthêu, Marcô, Luca,
Yoan. Tiếp đến là Công vụ các Tông đồ, nói về việc lập Hội Thánh tại Do Thái
cũng như dân ngoại, rồi 14 thư thánh Phaolô, 7 thư chung của Yacôbê, Phêrô,
Yuđa và Yoan Tông đồ. Cuối cùng là sách Khải huyền thánh Yoan với mục đích nâng
đỡ Hội Thánh trong cơn bách hại.
Đây không phải là một cuốn truỵện hoặc là
áng văn trình bày đạo lý, như thể để trả
lời các vấn nạn chúng ta đưa ra. Đây là một tập các chứng từ, qua đó, chúng
ta gặp được Chúa Yêsu, thấy sức mạnh phục sinh Chúa truyền ban cho Hội Thánh
thế nào và Thiên Chúa muốn các tín hữu mọi thời nhận biết Chúa Yêsu và công
cuộc cứu độ qua các chứng từ ấy.
Tân ước không hề thay thế cho Cựu ước.
Những gì Đức Yêsu rao giảng không hủy bỏ những cảnh báo của các ngôn sứ và tình
yêu không thay thế cho công bằng. Ơn Cứu độ Thiên Chúa hứa cho Israel
không thay thế cho ơn cứu rỗi linh hồn. Tin Mừng xuất hiện như sức mạnh giải
thoát, định hướng lại lịch sử và đẩy mọi nền văn minh tiến về đỉnh điểm là vạn
vật và mọi người được đoàn tụ và hòa
giải quanh Chúa Yêsu Kitô.
Như thế, Tân Ước là sách của Hội Thánh,
xuất phát cùng với Hội Thánh, cho chúng ta biết về Hội Thánh và
đặc ân mà cộng đoàn tín hữu có được nhờ Chúa Yêsu. Tuy nhiên có một vấn
đề nêu ra, là công việc soạn tác, công việc được Thần hứng, nghĩa là do Chúa
mặc khải. Nhiều người hiểu nghĩa Thần hứng nầy theo một nghĩa cực đoan, từng
câu chữ trong sách đều do Thiên Chúa chỉ dẫn, nên những gì chép lại buộc phải
tin đúng chắc, không sai lầm. Lối suy nghĩ này rất nguy hại cho lòng tin của
chúng ta. Thần hứng, cắt nghĩa theo một cách chung, là một năng lực, một ơn soi
sáng đặc biệt làm cho Sách Thánh được tiêu biểu như lời Chúa dạy chúng ta, là
xác nhận sự can thiệp của Thiên Chúa vào công việc của con người, để chúng ta
tìm biết sự thật mà Kinh Thánh muốn diễn đạt. Cũng nói thêm, chúng ta
không thể tìm thấy trong Kinh Thánh các sự thật về toán học, động vật học, cổ
học, thậm chí cả về sử học, mặc dù cũng có những điều phản ảnh được sự thật
lịch sử mà giới khảo cổ học đã minh chứng. Tóm lại, Sự thật mà Kinh Thánh muốn
bày tỏ là sự thật dành cho Ơn Cứu Độ chúng ta mà Thiên Chúa muốn ghi chép lại,
sự thật mà ý định của tác giả muốn nhân danh Thiên Chúa dạy chúng ta. Vấn đề là
chúng ta phải tìm hiểu tác giả muốn dạy điều gì trong chương sách chứ không
phải mọi chương sách viết ra đều là sự thật hoàn toàn. Điều nầy mang ý nghĩa một sự kiện
trong quá khứ có thể được thuật lại không phải vì sự kiện ấy mà vì ý nghĩa của
sự kiện ấy. Nói chung , vấn đề Thần hứng
cần được châm chước rất nhiều qua công việc bình luận kỹ lưỡng của các chuyên
gia có thẩm quyền, theo truyền thống. Chúng ta không quá đi sâu vào vấn đề
chuyên môn nầy, nhưng nói chung, những sách đã được đưa vào quy điển là Sách Thánh .
Trong khuôn khổ giới hạn, chúng ta sẽ cùng
nhau tập trung chủ yếu vào các sách Tin Mừng, các sách khác sẽ được trích dẫn
để làm sáng tỏ hơn khi thuận tiện. Tuy nhiên, như đã nói đầu tiên trong Đôi
dòng dẫn nhập, chúng tôi mong các bạn đọc tất cả, khởi đầu từ Tân Ước ở các
sách Tin Mừng, sau đó đến các sách khác theo thư mục và cuối cùng trở lại Cựu
Ước để hiểu rõ thêm .
II.
CÁC SÁCH TIN MỪNG.
Đi tìm dung mạo Yêsu Nazareth, không dễ gì
bằng qua các sách Tin Mừng. Bốn sách Tin Mừng đều có một ý định cho thấy sự
kiện Chúa Yêsu một cách chân thật, nhưng khía cạnh nhìn ngắm có khác nhau, do
cách vận dụng văn chương và truyền đạt cho nhóm đối tượng có khác.
Chúa Yêsu trong cuộc sống trần thế không
để lại một chữ nào nhưng Ngài dành phần lớn thời gian để đào tạo các Tông đồ.
Các ông sống với Ngài như môn đệ các bậc thầy Do Thái thường làm. Chúa Yêsu đã
lập đi lặp lại các chân lý chính yếu và các tông đồ đã ghi tạc vào lòng các
giáo huấn của Thầy mình, cũng như các biến cố đã chứng kiến. Toàn bộ các biến
cố và lời rao giảng của Chúa Yêsu, được các Tông đồ rao giảng và bình luận,
hình thành nên cái chúng ta gọi là Truyền thống các Tông đồ. Những gì chúng ta biết
được về Chúa Yêsu là do các Tông đồ truyền đạt lại, dĩ nhiên phải có ơn Thánh
Thần tác động trên mỗi người, chúng ta mới gặp được một Chúa Yêsu đang sống. Ai
trong chúng ta cũng có cám dỗ muốn biết chính xác Chúa đã nói những gì, y hệt
một số người đã được tận tai nghe. Tuy nhiên, Lời Chúa là Lời sống động. Lòng
tin của Giáo hội nhìn nhận các Tông đồ là chứng nhân chân chính của Chúa, các
ông hiểu Chúa như Thiên Chúa muốn mọi người hiểu, nhờ Đức Tin. Vậy, Lời Chúa
không chỉ là những gì Chúa Yêsu đã nói, mà còn là những gì các Tông đồ đã nói
liên quan đến Chúa Yêsu . Mở rộng ra, chúng ta cũng có thể hiểu các lời Thiên
Chúa phán qua miệng các ngôn sứ, như trong các sách Cựu Ước, cũng là Lời Thiên
Chúa. Chính vì Đức Tin nầy mà sau mỗi bài đọc trong Thánh lễ, Giáo hội đều
tuyên xưng “ Đó là lời Chúa ”.
1. Tin Mừng
nhất lãm.
Các sách Tin Mừng không phải được viết một
lèo do các thánh sử đột nhiên ngẫu hứng nhưng được đi từ khẩu truyền mới dần
hình thành văn tự. Trong đó các Tin Mừng của ba thánh sử Matthêu, Marcô, Luca
được gọi là Tin Mừng Nh ất Lãm. Có nghĩa người ta có thể đem ba
bản ấy viết thành ba cột song song để nhìn chung một lược, để so sánh cách các
ông viết về cùng một biến cố duy nhất. Qua đó có thể nhận thấy các ông có các
nguồn tư liệu khác nhau và có thần học riêng, cách hiểu riêng, nên các bản văn
tuy có đôi điều dị biệt, nhưng bổ túc cho nhau. Thật sai lầm nếu gán ghép các
đoạn văn của soạn tác nầy vào soạn tác khác, về cùng một biến cố.
Tin Mừng nhất lãm tả cách Đức Yêsu tỏ mình
ra dần dần, mỗi lúc một ít và cho các môn đồ mà thôi. Ngài tỏ mình trong cử chỉ
và thái độ, hơn là trong lời nói. Tin Mừng Nhất lãm tìm cách trình bày lại
những trình thuật và truyền thống của
những chứng nhân tiên khởi.
Tin
Mừng nhất lãm được viết theo nhãn giới lòng tin, cách viết cho thấy, đó không
phải là những chương suy luận đạo lý, nhưng là để chứng thật một sự kiện: Yêsu
người Nazareth
không phải là kết tinh của lòng mộ đạo của các tín đồ, nhưng là sự kiện lịch sử
có tang chứng. Là một người Do Thái chính gốc, đã sống tại Palestin, đã chữa
lành bệnh tật cho một số người, đã thu họp các môn đồ chung quanh, đã rao giảng
về Nước Trời đang đến. Cách giảng của Ngài đặc biệt đến nỗi, còn có thể nhận ra
chất giọng của Ngài, trong những chương của Tin Mừng. Đạo lý của Ngài, vừa ở
trong truyền thống Do Thái, vừa chối bỏ tất cả những gì làm nên kiểu sống của đạo
Do Thái. Giáo huấn đó của Ngài làm người đương thời không hiểu, không chỉ nơi
các lãnh đạo của Do Thái giáo, mà ngay các môn đồ cũng không hiểu. Sau cùng,
Ngài phải chịu khổ hình và chết dưới triều Phongxiô Philatô, vì chủ trương Ngài
là Đấng Cứu Độ ( Mêssia ). Nơi Ngài, Lời Hứa cứu độ đã thành tựu. Ngài tự ý đi
đến cái chết vì luôn duy trì đạo lý và chủ trương đó. Cuối cùng, điểm nhấn mà các
nhân chứng thời đó quả quyết và trối lại, họ đã thấy Ngài sống lại sau khi chết
rồi.( Thực tế là họ đã lấy máu mình để làm chứng cho sự thật đó.).
2.
Tin Mừng theo thánh Yoan .
Tất cả bốn Tin Mừng đều chung một lòng tin
vào Chúa Yêsu là Đấng Mêssia, là Con Thiên Chúa. Khi tả cách Ngài tỏ mình, Yoan
lại có cách trình bày khác Nhất lãm. Tin Mừng Yoan trình thuật Chúa Yêsu tuyên
bố ngay từ đầu, Ngài là Đấng Mêssia, Con Thiên Chúa theo một nghĩa hoàn toàn
siêu việt, không chuẩn bị trước, báo thẳng cho mọi người nghe Ngài và cả cho
những người không muốn nghe chút nào, về lời tuyên bố đó. Yoan nhìn ngắm Chúa
Yêsu trong một thực hữu sâu thẳm, hằng có, ngang qua những giai đoạn trần gian
kế tiếp nhau. Đó là Vinh quang Con Thiên Chúa hé rạng qua tất cả các biến cố
trong đời Ngài. Điều nầy không lạ, Tin Mừng Yoan được viết sau cùng. Ông đã có
thời gian suy niệm mầu nhiệm Nhập Thể, Cứu Độ, Ba Ngôi, Thầy mình thể hiện mà ông
đã sâu sắc cảm nhận.
Qua bốn Tin Mừng đều muốn nói vói chúng
ta Chúa Yêsu là Thiên Chúa thật và cũng là người thật. Là người thật vì sự kiện Chúa Yêsu là một sự kiện
lịch sử, có địa điểm, có thời gian và trong một xã hội nhất định, chứ không
phải là một nhân vật được dàn dựng. Là Thiên Chúa thật vì Ngài là một bí nhiệm.
Các môn đồ dần dần thấy được một sự hiện diện của Thiên Chúa và họ khám phá mãi
cho tới biến cố phục sinh. Sau họ, Hội Thánh tiếp tục khám phá mầu nhiệm Con
Thiên Chúa làm người.
III.
YÊSU NAZARETH , NGÀI LÀ AI ?
Thành thật mà nói, chúng ta khó lòng nhận
Chúa Yêsu là Thiên Chúa thật và là người
thật. Chúng ta, nhất là các tín hữu, nghĩ Ngài như sự hiện diện của Thiên Chúa
trong một thân xác người ta. Ngài có ý thức Ngài là Thiên Chúa. Ý thức đó là
một bí nhiệm, hoàn toàn xác thực Ngài phát xuất từ Thiên Chúa, đồng nhất với
Thiên Chúa. Điều nầy vượt qua mọi suy tầm của chúng ta. Tuy nhiên, Ngài là
người thật và Tin Mừng cho ta thấy rõ điều đó và Hội Thánh hằng quả quyết điều
đó. Ngài có ý thức nhân loại đích thực với một quyền tự do đích thực, Ngài có
trách nhiệm về sứ vụ của Ngài. Vậy đọc Tin Mừng là phải đọc trong lòng tin Ngài
là Chúa thật và là người thật.
Có hai quan điểm thường tranh luận suốt
bao thế kỷ về vấn đề Chúa Yêsu lịch sử và Chúa Yêsu của lòng tin. Dung mạo,
phong cách, hành tung của Yêsu lịch sử thế nào ? Yêsu lịch sử đi đôi hay tách
biệt với Chúa Yêsu Kitô của lòng tin mà các Tông đồ rao giảng.
Có thể nói rằng tín thư Tân ước tập
trung cách kỳ lạ nơi con người được tuyên xưng như Đấng sống lại sau khi đã
chết. Vậy Đấng ấy là một con người lịch sử đích thật trong trần gian nầy và
hiện vẫn đang sống. Điều nầy có nghĩa là người ta có thể gặp gỡ được trong hiện
tại. Thực sự
thì biết được một Yêsu lịch sử sẽ chẳng có ích lợi gì nếu không biết Ngài là
Đấng hiện tại và còn có thể gặp được. Một Yêsu lịch sử rồi thì cũng đi vào dĩ vãng, ký ức như bao
danh nhân khác trong quá khứ. Tuy nhiên, nếu chỉ có một Chúa Kitô của lòng tin,
thì cũng chỉ là một mớ lý thuyết, ảo ảnh, nếu Đấng ấy không dính dáng đến một
Yêsu lịch sử. Do đó, nếu Yêsu lịch sử chỉ là thần thoại, hay được tạo nên, thì tất
cả mọi sự đều sụp đổ và Chúa Yêsu của lòng tin dựa trên nhân vật ảo đó cũng
không có lý do tồn tại.
Đối với các Tín hữu, Thiên Chúa làm người
là điều không ai ngạc nhiên, thậm chí còn trách cứ ngược lại dân Do Thái xưa vì
sao họ lại không tin, nhưng tự nghĩ lại nếu bản thân mình vào thời đó chắc hẳn
mình cũng không tin cách dễ dàng. Chúng ta gặp thấy luôn trong Tin Mừng sự cứng
tin của chính các môn đồ Chúa Yêsu. Chúng ta thường nghĩ về Ngài với các phép
lạ ồ ạt, ngoạn mục, siêu phàm, nên rất dễ bỡ ngỡ, khó tin về một điều lạ lùng:
Thiên Chúa đi vào lịch sử loài người, mà lại sống như một người bình thường như
bao kẻ khác. Phải nói thẳng ra, những nhân vật cao trọng được Tin Mừng nhắc đến,
như Đức Maria, các tông đồ, cũng chưa biết Chúa Yêsu là con Thiên Chúa. Mọi
người, phải, tất cả mọi người ngang qua lịch trình trần gian của Ngài mới biết
được Thiên Chúa lịch sử là gì. Điều khó nhất cho chúng ta, là biết Thiên Chúa
làm người. Chính đây là tín thư vĩ đại nhất của Tân Ước. Thiên Chúa làm người,
đích thực là một người lịch sử như mọi người, chứ không phải như một bóng ma
hiện ra.
Thiên Chúa đã đến như thế. Đến trong sự
hèn mọn của loài người. Chính sự hèn mọn nầy gây nên sự cám dỗ vô thần ngày nay,
vì không ai có thể tưởng tượng ra nổi một sự khiêm hạ như thế. Thiên Chúa tỏ
bày quyền năng vô cùng của Ngài, không phải bằng những kỳ công hay điều lạ làm
bàn dân thiên hạ chóa mắt, nhưng chính bằng sự khiêm nhượng. Chính điều nầy làm
chúng ta phải tế nhận sự thinh lặng của Thiên Chúa trong lịch sử người đời. Sự
thinh lặng đầy mặc khải. Điều nầy thật trái ngược với các tín hữu mà trình độ
nhận thức còn ấu trĩ, không loại trừ ngay chính một số các chức sắc trong giáo
hội. Hình ảnh một Thiên Chúa thường xuyên dọa trừng phạt, ra uy, lúc nào cũng
ngập tràn, nên người ta dễ dàng đi đến kết luận về những tai họa gặp phải như
là những hình phạt của Thiên Chúa, là cơn thịnh nộ của Ngài. Quả thật, nếu
có một Thiên Chúa như thế, thì chúng ta
có thể kết luận đó là một Thiên Chúa huyền thoại.
Tin Mừng giúp chúng ta nhận định một Thiên
Chúa làm người sống như thế nào, từ đó, chúng ta nhận biết cách thích đáng hơn
Chúa Yêsu là mặc khải của Thiên Chúa : “Ai thấy Ta là thấy Cha”. Từ đây,
chúng ta thấy các điều gán ghép nào khác
cho Ngài, chỉ là trí tưởng tưởng tượng của phàm nhân, người ta có thấy Chúa
Yêsu trước nay, là thường thấy trong sự uy nghi siêu phàm, quyền năng cao cả,
phép lạ linh thiêng mà không mấy ai nhận ra Ngài, trong sự khiêm nhượng của
Ngài. Trong các bạn, các anh chị ai có dịp đọc cuốn “ Ánh đạo vàng ” của Võ đình Cường, hoặc một số sách ngụy thư trong
Hội Thánh, sẽ thấy cách tiêu biểu những phép lạ, do trí tưởng tượng con người
tạo ra. Các phép lạ đó, phải nói là không đúng và xa lạ với Thiên Chúa. Phép lạ
Thiên Chúa tuyệt đối không mang màu sắc dọa nạt, ra uy, hay áp đảo người ta.
Thiên Chúa với quyền năng vô hạn và
khiêm nhượng ẩn mình nên Ngài đến với con người trong sự yếu đuối của Ngài.
Thiên Chúa luôn là người thua, đành lòng chịu thua trước con người, không đành
lòng thắng con người theo phương thức con người. Có thế chúng ta mới lý giải tại sao khi nhập thế Ngài
khởi đầu trần trụi trong máng cỏ Bethlehem ,
sống làm anh thợ mộc vô danh, rao giảng thì bị dọa nạt truy đuổi và cuối cùng
lại chết trần trụi ( cũng lại trần trụi ) trên thập giá. Chính khi Ngài nhận
thua như vậy, Ngài mới thắng một cách triệt để : Đặt để con người trong sự tự do
của con người trước mặt Ngài. Cái thắng tuyệt đối là thắng trên sự tự do của
con người có thể đón nhận Thiên Chúa.
Như thế, khi đứng trước vấn nạn vô thần và
các suy niệm về mầu nhiệm cứu độ, chúng ta sẽ cảm nhận chiều sâu của lời Ngài :
“
Ai thấy Ta là thấy Cha ”.Chúng ta nhận chân mầu nhiệm Ba Ngôi, mầu
nhiệm Chúa Yêsu tỏ bày Thiên Chúa cho loài người và loài người nhận biết Thiên
Chúa chân thật là phải biết ngang qua một Yêsu Thiên Chúa làm người. Nói như
thánh Yoan : “ Ngôi Lời đã làm người và ở giữa chúng ta ”.
NGÀI LÀ AI
STT
|
ĐỨC YÊSU NGÀI LÀ AI
|
Matthêu
|
Marcô
|
Luca
|
Gioan
|
I
1
2
3
4
5
6
7
8
9
II
1
2
3
4
5
6
7
8
9
10
III
1
2
3
4
5
6
7
8
IV
1
2
3
4
5
V
1
2
3
4
VI
1
2
3
|
Thời niên thiếu.
Thiên Chúa ở cùng chúng ta
( Emmanuel )
Con Đức Trinh nữ Maria
Con nuôi thánh Yuse
Đấng Cứu Độ đã sinh ra
Em bé sinh trong máng cỏ tại Bêlem
Em bé bị truy sát.
Người Nazarét
Người luôn vì công việc Đức Chúa Cha
Người vâng phục cha mẹ
Thời rao giảng.
Người làm phép rữa trong Thánh Thần và lửa.
Mạc khải cho nhân loại về Thiên Chúa Ba Ngôi.
Người công bố Nước trời.
-
Hiến chương Nước Trời
-
Sư Công chính mới.
Hướng cách
sống mới.
-
Bố thí
-
Cầu nguyện .
- Ăn chay.
Cho chúng ta
gọi Thiên Chúa là cha.
Công bố các
đòi hỏi của Nước Trời :
- Kho tàng đích thực
- Thiên Chúa và của cải
- .Thiên Chúa quan phòng
- Chớ xét đoán.
- Hiệu lực của lời cầu xin
- Khuôn vàng thước ngọc.
- Hãy vào cửa hẹp.
- Các tiên tri giả
-
Môn đồ chân chính của Chúa Yêsu.
Người đến kêu gọi người tội lỗi.
Người thầy thuốc cho thể xác và tâm hồn.
Người có quyền trên tự nhiên
- Dẹp yên biển động.
- Đi trên mặt nước.
- Người chết sống lại.
Con bà góa Naim
Con ông Gaia
Lazarô
- Hóa bánh ra nhiều.
Đấng hay thương xót.
- Hãy mang lấy ách của tôi
- Điều răn trọng nhất
-Người phụ nữ ngoại tình
- Các dụ ngôn :
Con chiên lạc
Đồng bac bị mất.
Người cha nhân
hậu.
Thợ làm vườn nho
cuối giờ
Yêsu : Ngôi Hai
Thiên Chúa
Phêrô tuyên tín tại Kaisaria.
Nước hằng sống.
Bánh trường sinh
Ánh sáng trần gian.
Đấng hằng hữu.
Con Thiên Chúa.
Là đường,là sự thật,là sự sống
Mục tử nhân lành.
Kết thúc sứ vụ công
khai.
Công khai tước vị Mêsia
Cây nho thật.
Điều răn mới
Thiết lập bí tích Thánh thể.
Cầu xin cho các môn đồ.
Thương khó và phục
sinh
Nổi hãi sợ vì tội nhân loại.
Chịu vu cáo và sỉ nhục.
Chịu khổ hình và đóng đinh vào thập giá vì chúng ta.
Phục sinh
Thiết lập hội thánh-trao
sứ vụ.
Thiết lập hội thánh và trao quyền cho Phêrô.
Trao sứ vụ chomôn đồ.
Sẽ lại đến trong vinh quang
|
1
,23
2,11
1,20-24
2,5-6
2,13-17
2 ,19-23
13,53-55
3,16-17
17, 1-8
5, 1-12
5,20-48
6, 1-4
6, 5-6
6,16-18
6, 7-14
6,19-21
6,24
6,25-34
7, 1- 5
7, 7-11
7,12
7,13-14
7,15-20
7,21-27
9,10-13
4,23-27
8, 23-27
14,26-23
9,23-25
14,13-21
15,32-39
11,28-30
22,34-40
18,12-14
20,1-16
16,13-20
21, 1-11
26,26-28
26,36-46
26,57-67
27,39-44
27,27-37
28, 1-10
28,16-19
26,64
|
6, 1-6
1,10-11
9,
2- 8
2,15-17
4,35-41
6,45-54
5,35-43
6,35-44
8,
1- 8
12,28-32
8,27-30
11,
1-10
14,22-24
14;32-36
14,53-65
15,16-28
16, 1-8
16,14-18
14,62-63
|
2,6-7
2,11-12
2,1-7
2,39
4,16-30
2,49
2,51
3,16-17
3,21-22
9,28-36
6,20-23
11 , 2 – 4
12,33-34
16,13
12,22-31
6,37-38
41-42
11, 9-13
6,31
13,24
6,43-44
6,47-49
13,25-27
5,29-32
18, 9-14
19, 1-10
6,17-19
8,22-25
7,11-17
8,40-56
9,10-17
10,25-28
15, 4
-7
8-10
11-31
9,19-21
19,28-38
22,19-20
22,39-46
22,54-55
63-71
23,26-36
24, 1-10
24,36-49
|
5,19-45
14, 8-29
16,1-15
8,16-21
11, 1-44
6, 1-13
8, 1 -11
6,67-71
4,
7-26
6;35-58
8,12
8,23-24
10,22-39
14, 1-29
10,
1-18
12,12-19
15, 1- 8
15, 13-17
17,
1-26
18,13-14
19-24
19,
1- 24
20, 1-10
21,15-25
20,19-23
16,16-33
|
|
|
|
|
|
|
2- ĐỨC
YÊSU CON THIÊN CHÚA
Thời niên thiếu
1.
Bối cảnh lịch sử.
Sau khi đế chế ảnh hưởng lớn đến Do
Thái là Syria suy sụp, Đế quốc Rôma dần
len lỏi vào vùng Phương Đông. Bằng những biện pháp khôn khéo khi anh em nhà
Hasmônê tranh dành nhau, họ đã can thiệp, thôn tính nước Do Thái và chỉ cho
dòng họ Hasmônê cầm quyền về tôn giáo mà thôi. Quyền hành chính trị thật sự nằm
trong tay chân thân cận của Rôma. Có một người tên Antipatar thuộc dòng giống
Êđom xưa dùng tài khôn khéo để thiết lập
địa vị của mình và con cái, lập công đủ kiểu với các tướng lĩnh Rôma và được Caesar
phong làm “vua Do Thái”. Nhờ ân của
các tôn chủ Rôma, đặc biệt của hoàng đế Augustô, ông nầy được giữ quyền cho đến
chết. Đó chính là vua Hêrôđê, người đã
ra lệnh truy sát Chúa Yêsu tại Bethlehem vì sợ chiếm đoạt ngôi của ông và chính
các hài nhi tại đây đã bỏ mạng vì ông.
Trước tình hình đó, dân Do Thái bị phân
thành ba thành phần
-
Cộng tác : Đó là
lập trường của các gia đình quí phái tư tế. Họ tìm cách vớt vát đôi chút tự lập. Quyền của họ chủ yếu là chức thượng
tế và quản trị đền thờ Các thượng tế và nhóm Sađốc nói trong Tin Mừng chính là
nhóm nầy
-
Đối lập : Đó là
các nhà ái quốc bất mãn. Khi Chúa Yêsu còn bé, họ đã khởi loạn như Yuđa người
Galilê chẳng hạn. Họ bị trấn áp một cách tàn nhẫn. Hàng trăm người bị đóng đinh
vào thập giá. Phe đối lập từ đó hoạt động trong bóng tối và tự mệnh danh là
Nhiệt thành
-
Hàng phục thụ
động : Đó là hàng ngũ lãnh đạo tôn giáo. Họ là Biệt phái ký lục lo bảo tồn lề
luật, kỷ luật khắc khổ chờ Thiên Chúa can thiệp mà thiết lập nước của Ngài.
2.
Tính chất chung về tường thuật thời niên thiếu.
Trình
thuật thuộc giai đoạn muộn nhất trong truyền thống. Thư của Phaolô cũng như các
diễn từ đầu tiên ( Kerygma) không có ám chỉ nào về biến cố nầy. Truyền thống về
niên thiếu Chúa Yêsu là phần phụ trong truyền thống. Đây là các tường thuật
trong nội bộ tín hữu, không làm giàu thêm cho kho tín điều hay giáo huấn tu
đức. Biến cố nầy gồm các nội dung:
- Ân
huệ Thiên Chúa tạo ra Hội Thánh. Ngài chọn lựa những kẻ nghèo hèn khiêm nhu
trong kế đồ vĩnh cữu, trong Chúa Kitô (Ep1,35). Nhiều nhân vật được cảm thấy
Thiên Chúa chọn họ từ trong lòng mẹ (Gl 1,25), Ngài chọn cái không không để hủy
diệt những điều có (1C1,28). Họ biết Thiên Chúa giải bày trong sự yếu đuối của
họ ngang qua các điềm thiêng dấu lạ, hạ kẻ quyền cao nhắc người thấp hèn.
Có
mối quan hệ thiêng liêng về sự can thiệp xưa nơi Zacaria-Elisabeth, Yuse-Maria
và các can thiệp hiện vẫn xãy ra nơi cộng đoàn dân Chúa. Các điều nầy thấm
nhuần ký ức về cuộc Giáng Sinh Chúa Kitô.
- Với
biến cố Giáng Sinh, Thiên Chúa đã đi đến với con người cách quyết liệt, với ý
định đầy yêu thương muốn cứu độ họ: “ Emmamuel, Thiên Chúa ở cùng chúng ta”. Dưới
mắt thường nhân vẫn thế, nhưng Thiên Chúa viếng thăm dân đổi hẳn ý nghĩa lịch
sử. Đứng trước biến cố đó, có nhiều kiểu đáp ứng. Thái độ đáp ứng nầy được tin
mừng phác họa tiêu biểu nơi Mẹ Maria.
- Quan trọng nhất vẫn là địa vị của Chúa
Yêsu trong lịch sử cứu độ mà mỗi thánh sử nhận ra. Mattheu với Israel mới là
toàn thể nhân loại, thay cho Israel cũ. Với Luca, Ý định của Thiên Chúa mà mầu
nhiệm phục sinh là trung tâm, Thánh thần là chủ lực để gầy dựng cộng đoàn gồm
những người nghèo hèn khiêm nhu.
3.
Thời niên thiếu Chúa Yêsu theo Matthêu.
3.1 Chúa
Yêsu, vị Cứu Tinh.
Công
cuộc cứu độ là một cuộc giải phóng. Giải phóng điển hình đậm nét trong lịch sử
Israel là xuất hành khỏi Ai Cập, thủ lĩnh đứng đầu là Môsê. Đấng Cứu Tinh thời
sau cùng, Mêsia, cũng sẽ hành động như vị cứu tinh thứ nhất. Trình thuật Matthêu
cho biết Tân Ước được nẩy nở trong hoàn cảnh sống và suy niệm Kinh Thánh. Do
đó, chúng ta dễ dàng nhận ra cách mô tả Giáng Sinh của Chúa Yêsu mang những nét
tương tự Môsê tại Sách Xuất Hành.
3.2 Gia phả
Chúa Yêsu. ( Mt 1,1-17)
Yêsu,
tận cùng của gia phả Abraham, chứng tỏ thời tận cùng ( Cánh Chung) đã đến.
Trình bày gia phả Chúa Yêsu là cách tế nhận Thiên Chúa cai quản tông tộc. Mêsia
sinh bởi hoàng tộc David-Yuđa, Thiên Chúa trọn Lời Hứa với David về vương quyền
vĩnh cữu. Trình thuật trình bày sự suy ngắm của cộng đoàn tiên khởi quá khứ Ý
Định Thiên Chúa trong lịch sử Israel. Họ nhìn thấy dung mạo Đấng sẽ đến của
lịch sử đã qua. Nhờ đó, nuôi dưỡng đức tin vào Chúa Yêsu Cứu Thế. Có thể nói:
Lịch sử qui hướng về Chúa Yêsu
3.3 Truyền
tin cho Yuse. ( Mt 1,18-25)
Không có trình thuật nào giới thiệu Yuse trước. Đọc đoạn Tin Mừng nầy,
nhiều tín hữu cảm thấy nghi ngại cho thánh nhân. Matthêu giả định người đọc đã
biết ngài, người công chính điển hình của Cựu Ước. Yuse biết việc xãy ra cho
bạn mình, Maria, là do mãnh lực Thánh Thần. Đó là điều soạn tác nhấn mạnh. Đây
là cách Matthêu muốn giải thích việc Thiên Chúa thực hiện Lời Hứa với Đavid :
“Yuse, con vua David…”.
Yuse
đứng trước mầu nhiệm Thiên Chúa tỏ mình, một lòng túc kính hãi sợ và hạ mình
xuống như thụ tạo phàm tục. Yuse thấy mầu nhiệm cao siêu và được gọi mời tham
dự, ngài sợ hãi muốn thoái lui để Thiên Chúa toàn quyền hoạt động trên người
được chọn. Tố cáo, là động từ phải hiểu đúng nghĩa tiếng Hipri: Tiết lộ điều bí
ẩn. Yuse không muốn tiết lộ bí ẩn mầu nhiệm cao siêu của Thiên Chúa. Thiên sứ
truyền sứ vụ cho Yuse, ngài đã đáp lại. Không thẹn là bạn thanh sạch của Mẹ
Thiên Chúa.
3.4. Ngôi
sao lạ. ( Mt 2,1-12)
Chúng ta không mơ hồ tìm kiếm một ngôi sao chổi nào đó như 1 số người
còn ngây ngô tìm cách giải đáp. Matthêu muốn trình bày sao lạ như 1 triệu báo
Kinh Thánh đề cập. Ngôi sao mọc lên từ Giacob ( Ds 24,17), đầu tiên chỉ về
David, sau đó trở nên dấu hiệu báo vị Cứu Tinh khi thời hạn đến. ( tương truyền
Abraham cũng có ngôi sao triệu báo khi sinh ra).
Trình thuật nầy hàm ý 1 cuộc hành hương ( Is 60) của muôn dân đến Yêrusalem
sáng rực vinh quang của Thiên Chúa ( Tv 72,10).
Trình thuật muốn ngụ ý: Yêsu, con vua David, thuộc dòng dõi Abraham, vị
Mê sia toàn dân Israel trông mong, Con Thiên Chúa, bị dân Ngài khước từ. Dân ngoại không biết
lời tiên tri về Đấng Cứu Độ, phải học cùng người Do Thái cho biết Ý định Thiên
Chúa. Họ đã nhìn thấy sự thành tựu của Lời Hứa, kéo nhau đi thờ lạy Vua Do
Thái. Chúng ta thấy hàm ý : Bethlehem = Thập giá, Ngôi sao chiếu rạng = ánh
sáng Phục sinh…
Như
thế, tin mừng thời niên thiếu Chúa Yêsu theo Matthêu được viết tiếp sau khi kết
thúc tin mừng, đúc kết như sau:
Chúa
Yêsu sống lại, tuyên bố quyền năng của Ngài và sai các tông đồ đi rao giảng cho
mọi dân tộc. Đặc ân của Israel chấm dứt. Mọi dân tộc đều được kêu gọi. Người Do
Thái biết lai lịch và nơi sinh của Mêsia. Họ thỏa mãn rồi khi nói ra sự thông
đạt Kinh Thánh. Không ai nghĩ việc tìm kiếm Đức Mêsia. Dân ngoại ( Đạo sỹ) mới
hăm hở tìm kiếm. Dân ngoại đã làm tròn lời ngôn sứ. Yêrusalem đồng lõa với Herode
khước từ và tìm cách hủy diệt Đấng đến thực hiện Lời Hứa.
4.
Thời niên thiếu Chúa Yêsu theo Luca.
Thời
niên thiếu Chúa Yêsu được Luca tổ thuật thành 7 hồi và 14 cảnh:
-
Truyền tin cho
Zacaria ; Elizabeth thụ thai.
-
Truyền tin cho
Maria.
-
Maria-Elizabeth.
-
Sinh nhật Yoan
tẩy giả; Cắt bì, đặt tên.
-
Sinh nhật Chúa
Yêsu; Thiên Thần; Người chăn chiên.
-
Cắt bì, đặt tên
Chúa Yêsu; Dâng vào Đền Thánh; Simeon; Anna.
-
Chúa Yêsu ở lại
Yêrusalem.
4.1 Truyền
tin cho Zacaria.( Lc 1, 5-25)
Các
trình thuật Thiên Chúa can thiệp để bày tỏ Ý định cuả Ngài thường được trình
bày dưới 3 hình thức : Báo mộng, thông tri, sấm ngôn. Truyền tin cho Zacaria là
thông tri, có nhân vật hiển hiện và được người ta nhận lấy khi tỉnh táo, có đối
thoại.
Truyền
tin cho Zacaria báo tin con trẻ sinh ra lạ lùng, được hiến thánh từ lòng mẹ. Mẹ
hiếm muộn sinh con ( Is 54, 1-3) là biểu hiện việc gầy dựng nên 1 Dân giao ước,
là Ý định của Thiên Chúa. Dân nầy không phải là dân lịch sử, sinh sản tự nhiên,
nhưng là 1 tạo thành của Thiên Chúa. Đến đây, chúng ta mới hiểu được việc
Abraham và Sarah với 2 kiểu sinh - Lời hứa thứ ba – Thiên Chúa cho trổi dậy
những người có sứ mạng của Dân Giao Ước, biểu trưng nơi cha mẹ son sẻ sinh con.
Cựu Ước có nhiều nhân vật như Samson, Samuel, Yêrêmia…
Con
trẻ được đặt tên là Yoan theo lời thiên sứ báo tin mang sứ mệnh: Thời Thiên
Chúa hứa đã viên mãn, lời ngôn sứ được thực hiện. Các dấu chỉ Yoan là ngôn sứ
được thể hiện : Khổ hạnh ( tương tự Samson, Samuel… các Nazir), được chọn từ
lòng mẹ nhưng hơn hẳn là được tràn đầy Thánh Thần từ trong lòng : Vui mừng chào
đón Đấng Thiên Sai. Yoan là tiền hô mang thần khí Êlia đi trước kêu gọi nhiều người
trở lại, hoạt động như các ngôn sứ đã làm.
4.2 Truyền
tin cho Đức Maria.
4.2.1 Lời
chào của thiên sứ Gabriel.
- Cần
đọc lại Sách Thẩm Phán, khi Thiên sứ chào Ghiđêon : “ Chào Dũng tướng bách quân…”
để hiểu rõ hơn về lời chào. Lời chào đã thể hiện tước vị, sứ vụ trong Ý
định của Thiên Chúa. Nhân vật nầy có tầm quan trọng trong sứ vụ đối với đoàn
thể.
Trình thuật cũng đề cập đến sự
tương phản : Đền Thánh, Lề luật trong truyền
tin cho Zacaria và Galilée ( thành dân ngoại) - Ân huệ trong truyền tin
cho Đức Maria. Thời cũ đã qua đi, thời khai ân hình thành. Chúng ta cũng không
chối bỏ sự xuất hiện của Thiên sứ Gabriel, nhưng trình thuật muốn nhấn mạnh đến
sự siêu nhiên của Tin mang đến. Ý nói đến việc cụ thể hóa một vấn đề thuộc ơn
soi sáng bên trong hơn là tường thuật trực tiếp.
-“Mừng
vui lên, Đầy Ơn Phúc, Chúa ở cùng bà”. Tước hiệu của Mẹ : ĐẦY ÂN PHÚC. Thiên Chúa can thiệp vào
lịch sử Israel để chuyển hướng theo Ý định của Ngài. Tước hiệu nầy bao quát tin
báo diễn ra sau : Tin Mừng được tóm lại trong từ Ân Huệ. Lòng sủng mộ Thiên
Chúa thay cho lề luât. Đức Maria là biểu trưng cộng đoàn Giao Ước Mới dưới Ân
Huệ của Thiên Chúa, là hình ảnh Hội Thánh được thể hóa nơi Mẹ Maria. Thiên Chúa
đã cho nhà David 1 dấu : Trinh nữ sinh con và đặt tên là Emmanuel. Các lời tiên
tri nầy hướng về Chúa Yêsu và cuối cùng là Hội Thánh. Ngõ hầu; “ Con ở trong
chúng, Cha ở trong Con, để chúng nên hoàn toàn là một” ( Ga17,23) Thiên Chúa
kéo con cái Ngài nơi Chúa Kitô ( Filii in filio).
4.2.2 Vấn đề
Đồng trinh. Lời xin vâng.
Trình
thuật của Luca không theo lịch sử, tâm lý nhân vật trong hoàn cảnh nhưng chiếu
theo những dự định đạo lý và giáo huấn của thánh sử: Son sẻ ( hiếm muộn ) mà
thụ thai là dấu địa vị lớn lao trong thánh sử của người con, nữa là trinh nữ mà
thụ thai.
Hội
Thánh vào thời Luca đã biết lý tưởng Đồng trinh ( 1Cr7 ), đã tin vào việc trinh
thai trong việc sinh Chúa Yêsu. Luca muốn diễn đạt trinh thai là dấu vạch tư
cách đặc biệt của Người Con được sinh cách lạ thường. Đây là dấu chứ không phải
chứng.
Ân
huệ đồng trinh nơi Mẹ là hậu quả của Ơn thiên triệu làm Mẹ Thiên Chúa. Ý định
Đồng trinh của Mẹ là đã ở vị thế sẵn sàng tận gốc đón nhận Ý Định Thiên Chúa,
mọi nơi, mọi thời, mọi lúc và bất cứ thế nào. Đón nhận ý định Thiên Chúa trên
Mẹ biểu lộ bằng lời “ Xin Vâng”.
Cũng
hiểu thêm, việc có con là sự chúc lành của Thiên Chúa. Son sẻ diễn tả sự bất
lực của con người để thực hiện kế đồ của Thiên Chúa, là dịp để quyền năng Thiên
Chúa được tỏ bày minh bạch. Ý định của Thiên Chúa là gầy dựng nên một Dân của
Ngài, một dân không phải trên năng lực phàm thường của con người, mà trên Lời
Hứa. Do đó, người son sẻ biết sự bất lực thân phận của mình, nên họ được mừng vui
nhờ quyền năng Thiên Chúa. Người son sẻ thể hiện phần lớn dung mạo người
anawim.
Tiếp đến, người Do Thái không coi đồng trinh
là 1 nhân đức mà là sự nghèo nàn, bất lực còn tệ hơn là son sẻ ( Ys 3,25; 4,1
). Do đó, magnificat nói đến từ Tape inosis ( Lc 1,48 ), sự hổ nhục. Chính vì
thế , khi “ Mọi dân kêu tôi có phúc” là tiếng vọng lại sự vinh hạnh bất
ngờ của son sẽ sinh con. Ysaia dùng dung mạo người son sẻ để diễn tả hạnh phúc
lạ lùng của Yêrusalem cánh chung. Son sẻ tương ứng với thây chết, là hết sự
sống, tên tuổi bị đứt khỏi nhân gian, trong lúc lý tưởng là dòng dõi được nối
tiếp trên cõi đời.( Thiên Chúa yêu thương đặc biệt sự bất lực}.
Đồng
trinh của Mẹ là 1 cái chết, nhưng cái chết đó được mãnh lực Thần Khí đến trên
xương tàn mà hình thành nên “ Tạo Thành Mới”. ( Ezêkiel).
4.3 Đức Mẹ
đi viếng Elizabeth.
Luca giảm bớt nhiều mối liên lạc giữa
Yoan-Yêsu với ý định rõ rệt tách biệt hai thời kỳ. Thời Israel mà Yoan là tận
cùng và Thời của Chúa Yêsu là tâm điểm thời gian. Chính vì thế nên ông sử dụng
thời niên thiếu Chúa Yêsu để vạch mối tương quan, trong đó các điểm cốt yếu:
-
Yoan là tiền hô.
-
Maria gặp
Elizabeth nhưng Yoan được gặp Chúa Yêsu.
-
Chức vụ lạ lùng
của người con qua lời tán thán của người mẹ.
*Magnificat:
Một
dạng thức ca vịnh dùng kiểu trích dẫn các thánh vịnh Cựu Ước, xuất phát từ 1
nhóm đạo đức anawim và được dùng trong các phụng vụ đầu tiên của Hôi Thánh. Sau
đó, Luca sử dụng để nêu 1 vấn đề: Mẹ là mẫu mực biểu trưng của Hội Thánh, thiếu
nữ Sion đã thay hết chỗ Israel với nội dung:
-
Đấng ban ân và kẻ
được ân.
-
Thiên Chúa yêu
thương kẻ nghèo hèn khiêm nhu.
-
Thiên Chúa và
Israel: Thiên Chúa trung tín với Lời Hứa.
4.4 Sinh
nhật Yoan tẩy giả - Benedictus.
Đặt
tên cho con là vấn đề quan trọng, thể hiện quyền của cha mẹ. Tên thường được
đặt theo hoàn cảnh hay 1 biến cố đậm nét
trong đời cha mẹ. Sau nầy, việc đặt tên thường lấy tên người trong gia đình,
lấy tên ông đặt cho cháu chứ ít khi lấy tên cha đặt cho con. Đặt tên Yoan khắc
ghi biến cố Thiên sứ truyền cho Zacaria, ý định Thiên Chúa được thực hiện, mặc
cho sự khó hiểu của thường nhân.
Benedictus là lời chúc tụng Thiên Chúa, Đấng trung tín thực hiện Lời Hứa
giao ước. Ngài viếng thăm dân và tỏ lòng thương xót. Thời khai ân hé rạng theo
lời tiên tri loan báo. Bài tụng ca nầy cũng đặt Yoan vào vị thế tiên tri Đấng
Tối Cao, đi trước mặt Chúa để dọn đường, ngõ hầu muôn dân biết đường cứu thoát
trong Ơn Tha Tội.
4.5 Sinh
nhật Chúa Yêsu.
Luca
đã mở ra nhãn giới lịch sử, đặt vị vị trí biến cố Nhập Thể vào lịch sử con người,
nhất là lịch sử đế quốc Roma, khi đề cập việc kiểm tra dân số. ( Tất nhiên,
cũng có vài vấn đề khi đối chiếu lịch sử Roma và biến cố, nhưng bất tất phải
quan trọng hóa vì thánh sử nhấn mạnh đến khía cạnh giáo huấn và đạo lý).
Trình thuật không những đánh dấu thời gian mà còn hướng về đạo lý.
Augustus, hoàng đế Roma, là trung tâm đế quốc. Một lệnh ban ra, thiên hạ chuyển
động. Quirinius, thần tử Augustus tại phương Đông, cũng dựa vào đó mà quyền uy
tương tự. Đi cùng việc kiểm tra dân số là việc bổ thuế (không có thống kê suông).
Đây là nguồn cội phong trào chống Roma của Yuđa người Galilée và nhóm nhiệt
thành. Với họ, nộp thuế cho Roma là bội phản. Hành động chống đối nầy dần đưa
dân Do Thái đến mất nước vào năm 70.
Trong bối cảnh chính trị Yudée với cuộc xung đột Roma – Nhiệt thành,
Yuse, dòng dõi hoàng triều David, không kháng cự và vâng lệnh đi kiểm tra. Như
thế, Nước Thiên Chúa không thuộc thế gian nầy. Ngay từ đầu, thánh gia đã vâng
phục và làm trọn luật lệ Roma. Như thế, Hội Thánh sau nầy cũng vậy với thế quyền.
Trên
bình diện thế nhân, người Con dòng dõi mang hy vọng của Israel đã đi đăng sổ
kiểm tra cách lặng lẽ, nhục nhã theo lẽ thường. Lời Thiên Chúa phải chăng có
thật ? Nhóm Nhiệt thành nhìn thấy mối thất vọng nên cố gắng hoạt động như cố thúc
ép Thiên Chúa hành động. ( Hành động như quá khứ cha ông họ làm, sách Samuel).
Tuy nhiên, với người có lòng tin, chính lúc Thiên Chúa có vẻ bó tay trước hoàng
đế thì Lời Hứa được thực hiện trong âm thầm lặng lẽ, vào lúc bấp bênh hơn bao
giờ hết. Thiên Chúa đặt giữa nhân loại trung tâm Cánh Chung. Khi toàn thể nhân
loại dõi mắt về Roma và náo loạn về lệnh ban ra từ đó, trung tâm Cánh chung
xuất hiện trong nghèo hèn ti tiện, nơi tận cùng lề vũ trụ, nhưng là trung tâm
an bình cho kẻ Chúa thương.
Trung tâm nầy được công nhận cách tinh tế và
người nhận ra là những kẻ cần thiết cho sinh hoạt của dân chúng, luôn cận kề
nguy hiểm, lại bị khinh bỉ về mặt tôn giáo: Những người chăn cừu ( Lc12, 32),
đoàn chiên bé nhỏ. Lời Hứa thành sự trong điều mâu thuẫn. Dấu hiệu lạ lùng để
nhận chân vị Cứu tinh: Hài nhi nằm trong máng cỏ. Dấu là cho kẻ tin nhận ra sự
can thiệp của Thiên Chúa trong điều trái nghịch dự tưởng của thế nhân. Người
không tin chẳng thấy gì.
4.6 Dâng Chúa Yêsu vào Đền Thánh. (Lc 2, 21-40)
Yêrusalem, Trung tâm thánh sử. Vị Cứu
Tinh Israel tỏ mình cho thế gian cũng phải tại nơi nầy. Đây còn là chóp đỉnh
lời tiên tri Luca dùng để trình thuật: Mêsia tư tế. Thành tựu lời tiên tri
Daniel về việc tẩy luyện hàng tư tế và hoàn tất tế lễ ( Dn 9, 24).
Simeon, Anna biểu trưng cho Israel đích thực mong chờ Đấng Mêsia và đạt
được ước nguyện. Thần khí Thiên Chúa đổ xuống trên ngôn sứ, trên Simeon và Anna
để giới thiệu Đấng cứu độ nơi Hài Nhi. Thần khí được Yoel loan báo vào thời sau
hết đã nên ứng nghiệm.
4.7. Tìm
thấy Chúa Yêsu trong Đền Thánh.
Tuổi thành niên theo lề luật : Nam 13, Nữ 12.
Trước khi tự mình giữ lề luật đi hành hương, năm trước đó, cha mẹ thường đem
con đi theo như thể đã trưởng thành. Trình thuật cho thấy Đức Maria tìm kiếm
Chúa Yêsu gợi lại một Maria Magdala tìm xác Chúa sau nầy. Lời Chúa Yêsu nói với
Mẹ cũng huyền bí như với Magdala. Cả hai trình bày 1 sự thay đổi trong cách xử
thế, một mối liên lạc mới được xây dựng trên cuộc diện khai mạc thời Cứu độ.
Chúa
Yêsu gặp các tiến sỹ ngụ ý đến sứ vụ của Ngài, Sứ vụ tiến sỹ, Đấng giảng dạy
Nước Thiên Chúa. Như thế, việc giảng dạy các tiến sỹ vọng lại sự đợi trông nơi
cộng đoàn đạo đức một Mêsia tư tế, Mêsia- Aahron đến tẩy luyện hàng tư tế và tế
lễ.
Khi
nói đến từ Cha với Mẹ Maria nơi Đền thờ, Lời đầu tiên Ngài thốt ra trong Tin
mừng Luca, thánh sử đã đem nội dung Tin Mừng Nước Thiên Chúa được rao giảng
trong mối liên lạc độc nhất của Chúa Yêsu - Thiên Chúa. Tự sâu thẳm nơi Ngài,
Cha chi phối mọi sự và không ai, kể cả người Mẹ cho Ngài thể xác, cảm thấu.
Chúa Yêsu cho thấy Ngài được quyền đối xử với Thiên Chúa như trẻ con với cha.
Điều nầy trở nên ý thức toàn vẹn trong cuộc sống nhân thế rao giảng của Ngài.
Cũng
như mọi thiếu niên, Chúa Yêsu có ý thức tiệm tiến về bản thân mình. Cậu có tên
Yêsu, có bà mẹ tên Maria, có người đàn ông sống cạnh Mẹ và đỡ đần trong cuộc sống,
được Maria dạy gọi là cha. Đột nhiên, trong một lúc, nếu có thể gọi như thế,
Yêsu ý thức có Đấng sống trong Ngài, nói với Ngài bằng cung giọng trìu mến yêu
thương, Đấng mà người ta gọi là Thiên Chúa. Ngài nói chuyện và gọi Đấng ấy là
Cha, Abba – Cha ơi! Chưa ai dạy Ngài điều ấy. Mẹ Maria dạy Ngài gọi Yuse là cha
nhưng không thể dạy Ngài gọi Thiên Chúa là Cha từ trong thẳm sâu tâm hồn bằng
một lời yêu thương trìu mến.
Lời
gọi Abba vụt trào từ cửa miệng Ngài là tự con tim. Phaolô giải thích đó là
tiếng của Thần Khí. Thần Khí Chúa Con ngự trong lòng Ngài và làm Ngài thành
Con. Ngài là Con bẩm sinh. Ngài chưa bao giờ biết Thiên Chúa nào khác ngoài
chính Cha mình. Tâm tình con thảo nơi Ngài làm một với bản tính của Ngài. Ngài
là Thiên Chúa.
5. Ẩn dật
tại Nazarét tới ngày thực hiện sứ vụ. ( Lc 2,51-52)
Tin Mừng Luca không nói gì thêm về cuộc
đời Đức Yêsu cho tới lúc Ngài bắt đầu sứ vụ. Chắc hẳn thánh cả Yuse đã qua đời
trước khi Ngài bắt đầu đi rao giảng nếu không, Đức Maria phải ở lại với người theo
phong tục tam tòng.
Nhiều người thắc mắc không biết Đức Yêsu
làm gì trong giai đoạn nầy. Chúng tôi xin mượn lời chú giải trong Kinh Thánh
của Bernard và Louis Hurault, đã được Giáo Hội Công Giáo chuẩn nhận như sau :
Trước hết, phải nhắc lại rắng sách Tin
Mừng không phải là một tập sách “Cuộc đời Chúa Yêsu”, kể chuyện từ
khi Ngài chào đời cho đến lúc chết. Tin mừng chỉ muốn nói cho chúng ta biết những lời quan trọng nhất mà Chúa Yêsu
đã nói, cùng những hành vi cử chỉ có liên quan đến thông điệp cứu độ của Ngài
mà thôi. Một vài kẻ giả danh thừa cơ
khoảng trống trong Tin Mừng để tưởng tượng Chúa Yêsu đi qua Ấn Độ học nghề phù
thủy và thuật làm phép lạ. Đó là những bịa đặt không có giá trị. Hơn nữa khi
dân làng Nazarét kinh ngạc thấy các phép lạ Chúa làm, họ đã chẳng nói : “Chuyện
gì đã xãy ra cho con bác thợ mộc vậy ? Chúng ta biết ông ấy từ lâu, sao lại có
chuyện nầy.” ( Mt 13,54-56 ). Cộng đoàn Kitô hữu Nazarét về sau đã giữ
lại một số vật dụng do tay bác thợ là Con Thiên Chúa làm ra .